Vào ngày 6 tháng 10 năm 2001, người Hy Lạp đối mặt với đội tuyển Anh tại Old Trafford trong trận đấu cuối cùng của vòng loại World Cup. Chỉ với sáu điểm và đứng thứ hai trong bảng, đội đã hết vòng loại. Theo quan điểm của Hy Lạp, trò chơi không chỉ là một trận đấu cao su chết chóc; trận hòa hai tất cả với Tam sư tại Old Trafford đã cháy vé là khởi đầu của một hành trình đáng kinh ngạc đến vinh quang Euro 2004. Sau khi dẫn trước 2-1, Hy Lạp đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ duy trì một thế trận phòng ngự chắc chắn và chặn đứng mọi nguy cơ mà Anh gây ra. David Beckham đã ghi một trong những bàn thắng từ quả phạt đền vĩ đại nhất trong sự nghiệp của mình để phá vỡ sự kiên cường của đội bóng Hy Lạp này, những người đã cho thấy những dấu hiệu của những gì sẽ đến trong tương lai.

Màn trình diễn của đội tuyển quốc gia Hy Lạp trong chiến dịch vòng loại World Cup 2002 gần như tệ nhất có thể. Do đó, huấn luyện viên trưởng Vasilis Daniil đã bị sa thải hai trận vòng loại trước khi kết thúc. Người thay thế anh là huấn luyện viên nổi tiếng người Đức Otto Rehhagel, người không là gì khác ngoài một đại diện thực sự của văn hóa bóng đá Đức. Được biết đến với trí thông minh chiến thuật và phương pháp huấn luyện có kỷ luật nghiêm ngặt, Rehhagel đã có một ý tưởng hoàn hảo về cách biến một đội bóng với tài năng hạn chế thành một thứ vẫn có thể giành chiến thắng bằng phong cách chơi cứng nhắc và kỷ luật của mình.
Mặc dù chiến thuật của Rehhagel cực kỳ thực dụng và thiếu sự tinh tế, nhưng tất cả đều có lý khi bạn nhìn vào đội hình mà Hy Lạp đã tập hợp trước giải đấu. Không có gì xấu hổ khi nói rằng đội tuyển Hy Lạp năm 2004 là một trong những đội kém tài năng nhất về năng lực cá nhân, với Latvia có lẽ là đội duy nhất kém họ một bước về thứ tự mổ xẻ. Đội tuyển Hy Lạp tham dự Euro 2004 chủ yếu gồm các cầu thủ đến từ 3 câu lạc bộ lớn của Hy Lạp: Panathinaikos, Olympiacos và AEK Athens.
Đội hình chiến thuật mà Rehhagel đề xuất về cơ bản là 4-3-3, một chiến thuật thường được kết hợp với những đội thích chơi tấn công tinh tế và tạo ra nhiều cơ hội ghi bàn, trong khi 4-3-3 của Hy Lạp không giống như vậy. Kostas Katsouranis đá sâu nhất trong ba tiền vệ và đóng vai trò kẻ hủy diệt, trong khi Angelos Basinas và Theodoras Zagorakis chiếm phần còn lại của hàng tiền vệ, nhưng cả hai đều không phải là những tiền vệ sáng tạo mà người ta có thể tưởng tượng. Angelos Charisteas và Giorgios Karagounis ban đầu là những cầu thủ chơi rộng, sau đó thường dạt vào hàng tiền vệ, trong khi hậu vệ trái Panagiotis Fyssas thỉnh thoảng thực hiện những pha chạy chồng chéo.

Khi cầm bóng, hàng công của Hy Lạp chủ yếu tập trung vào lối chơi chuyển giao bóng. Họ cố gắng tổ chức các đợt phản công nhanh bằng cách gây áp lực lên hai cánh, và thực hiện các quả tạt vào vòng cấm để đánh đầu mạnh. Không có quyền kiểm soát, các hướng dẫn của Rehhagel hầu hết rất rõ ràng và đơn giản: Sử dụng biện pháp phòng thủ đánh dấu giữa người với người nghiêm ngặt và cứng nhắc để theo dõi từng người chơi đối phương càng chặt chẽ càng tốt, cố gắng chặn đường chạy của họ và cuối cùng đánh dấu họ ra khỏi trò chơi.